Người có tâm, tất ngẫm ngợi nhiều chuyện, cũng sẽ quên nhiều chuyện. Tôi không biết một con quỷ dưới địa ngục thì có tâm hay không.
Ngày ngày tháng tháng trôi, tôi thấy tôi ngày lại ngày càng trở nên lãnh đạm, rất nhiều những chuyện trong quá khứ đều trở nên mờ nhạt, tôi đã dần dà lãng quên đi những xúc động, những thương xót, những lúc đau đớn, quên rồi, dường như quên tất cả rồi…
Trí óc đã quên rất nhiều, cần có thứ gì đó mới mẻ lấp đầy, cho nên, tôi bắt đầu chăm chú nghiền ngẫm những lời nói của Bồ Tát năm ấy, dường như tôi hiểu ra đôi chân lý.
Cõi phù sinh đều là khổ ải, vạn vật chỉ có hình tướng mà chẳng có gốc căn (vạn tượng bản vô). Đó là lời Bồ Tát, tôi tin rằng Bồ Tát đúng, nhưng tôi vẫn không thể hiểu, vì sao đã có Cõi Người mười dặm hồng trần, thì tại sao nó lại chỉ là Hư Không? Chả lẽ cõi người chỉ là một trò chơi mà Thần Phật dùng để giày vò con người thôi ư? Làm cho con người không chịu đựng nổi biển khổ nữa đành quay đầu về Cõi Phật? Thần Phật ti tiện nham hiểm như thế, thì đáng cho xuống địa ngục! Nhưng, tôi dứt khoát không tin rằng Thần Phật đang đùa giỡn với người đời, bởi Phật luôn là đấng từ bi nhất. Và tất cả tất cả những điều này, nên giải thích thế nào?
Tôi vùi đầu vào kinh kệ, một lòng niệm giáo lý nhà Phật, tôi muốn biết, tất cả, vì sao lại xảy ra? Tôi còn nhớ được đôi chút chuyện ngày xưa trên trần gian, giờ hồi tưởng đến, tôi không đành ngoái lại. Nếu tôi có thể hiểu được nhân quả của chuyện cũ, tôi tin rằng, những đau khổ trên thế gian này sẽ dần tiêu tan đi. Tôi đã trải qua ngàn năm mơ hồ và đợi chờ, tôi muôn giúp đỡ những linh hồn đang còn mê man như tôi, những người đang còn đau khổ như tôi, như thể giúp chính tôi được giải thoát.
Mải mê tìm kiếm, đông qua đã bao năm, không biết không hay, tôi lại đã vùi đầu vào kinh kệ 300 năm. Ty chủ đã gọi tôi qua, khen tôi đắc Đại Đạo, cho tôi làm phán quan bên ngài, tôi tạ ơn và từ chối. Bạch Vô Thường đại ca lại kinh ngạc tới mức để rơi lưỡi xuống đất, nói tôi sao đã xem nhẹ được danh vọng, thật đã “tứ đại giai không” (mời tham khảo một bài viết khá thú vị ở đây), (thoát được những lệ thuộc thể phách hư ảo cõi nhân gian như không hình người, không bản ngã, không súc sanh, không dài lâu.) có thể viên mãn đắc đạo như thần tiên (bạch nhật phi thăng). Tôi chẳng nói gì, trong lòng tôi mắng thầm: Tôi cũng chẳng phải sư, Không cái gì mà Không, coi thường danh lợi gì đâu, chẳng qua là trong lòng tôi đang rối bời mà thôi.
Nhưng cũng không rõ từ bao giờ, những người quanh tôi, à không nên gọi là quỷ quanh tôi, bắt đầu kính trọng tôi, Bồ Tát cũng thường gọi tôi đi nghe ngài giảng kinh thuyết pháp. Thực ra tôi chỉ hiểu rõ một điều, cho dù hiểu rồi, tôi vẫn thấy không phải tất cả những lẽ Phật đều đúng, bởi tôi tin cõi mang mang đất trời tự nó đã có chân lý, chân lý là gì? Tôi cảm thấy đó chính là đừng để chúng sinh phải khổ đau nữa.
Bồ Tát nói phải cắt đứt mọi dục vọng, nhưng tôi lại thấy đó đâu phải là Lẽ Phải, một cuộc sống đã tắt mọi dục vọng thì còn gì để sống? Nhưng tôi không dám nói ra mồm, tôi chỉ mơ hồ trong sâu thẳm, rồi cật lực tìm đáp án giữa những trang kinh.
Đọc hàng nghìn vạn trang sách Kinh, đọc Phật gia, đọc Đạo gia, tôi chỉ thấu đáo nửa chừng, rồi cảm thấy tuy những lời đó có lý, nhưng đều đâu phải thứ tôi cần tìm. Nhất là “Nam Hoa Kinh” của Trang Tử, tôi hoàn toàn bị lý lẽ “Bướm bay múa - Hồ điệp phi vũ” của ông ta làm quay cuồng đầu óc, bị đánh lạc hướng, ngập tràn trang giấy, không rõ nên nói sao. Càng làm tôi mơ hồ hơn là mỗi lần Bồ Tát hỏi tôi Thiền cơ.
Tôi hoặc tuỳ tiện đáp lời, hoặc trầm ngâm không nói.
Bồ Tát thì phảng phất nụ cười, tôi không thể hiểu ý ngài ra sao, hoang hoải rồi trọn ngày.
Rồi lại thế 200 năm, tôi kinh ngạc vì tính nhẫn nại của chính mình, sao tôi vẫn có thể cứ đọc mãi sách kinh, cho dù tâm tôi không ở trang sách mà vẫn đọc nổi.
Xem ra đọc Kinh phật cũng có ưu điểm, đó là niệm Kinh chẳng thành, nhưng lại được lòng Bồ Tát, được Ngài truyền thụ cho tu luyện pháp môn, học những bế khí thăng thiên, khai huyệt phi thăng, sát pháp biến hoá…
Tôi vốn chỉ là một tiểu ngạ quỷ ti tiện, vốn làm gì đủ tư cách học, cũng chẳng biết học về làm cái gì, nhưng Bồ Tát nói, tu luyện pháp lực chính là gốc rễ cho việc trừ ma giữ đạo. Tôi không hiểu, nếu Phật pháp đã là vô biên, thì vì sao còn tồn tại tà ma ngoại đạo. Nhưng Bồ Tát nói, có những kẻ bản tính ngoan cố độc ác, không thể giáo hoá. Tôi ngoan ngoãn nghe lời ngài.
Có một ngày, tôi đang vật vờ tại địa phủ, bước chân lơ đãng đưa tôi đến nơi Mãnh Bà đang nấu canh Lãng Quên. Mãnh Bà ngủ gật. Tôi bước tới gọi bà dậy, Mãnh Bà hốt hoảng thức giấc, hoảng loạn ngó trước nhìn sau, hồi lâu mới thở phào nhẹ nhõm. Tôi lấy làm lạ, sao bà lo âu thế, bà nói, nếu có quỷ nào không uống bát canh của bà đã đi đầu thai, thì bà mang tội lớn. Tôi hỏi bà, vì sao hồn quỷ phải uống canh Lãng quên rồi mới được đi đầu thai?
Bà trả lời, để ký ức của hồn đó không bao giờ được nối tiếp. Để mỗi kiếp nó đều có muôn vàn những nuối tiếc, cứ thế đến ngày nó mệt mỏi chán ghét những đau đớn dằn vặt, nó từ bỏ cơ hội được luân hồi, nó sẽ một lòng theo đại đạo.
Tôi nghi ngại quá, tôi thấy điều đó khác gì lừa dối con người, cố ý dày vò con người. Tôi hỏi, chẳng lẽ người đời toàn xấu xa thôi sao? Vì sao không để cho những hồn ma đó vui vẻ tiếp tục đầu thai làm người.
Sắc mặt của Mãnh Bà chuyển từ ngạc nhiên sang sợ sệt, không trả lời tôi, vội vã đẩy tôi tránh xa bà…
Từ chỗ Mãnh Bà về, lòng tôi dồi lên như sóng, tôi không muốn tin rằng những thủ đoạn đối đãi với chúng sinh như thế này là hợp lẽ. nhưng đó rõ ràng lại là luật trời, vậy vì sao luật trời là một bất công lớn lao? Trong sách Phật đều nói chúng sinh là bình đẳng, tức là nói mỗi chúng sinh có toàn quyền lựa chọn con đường sống của họ, nếu họ có chọn lấy những đời lầm lạc, thì cũng có thể hiểu được.
Nhưng nếu ép chúng sinh vì khổ sở dày vò trăm đường rồi đành phải quay đầu về đại đạo, thì rõ ràng đây là một trò lừa đảo. Đại đạo cũng tốt, cõi người cũng tốt, vũ trụ vạn vật đều sinh ra trong tự nhiên, bản thân mỗi vật đã có một giá trị riêng của mình, vì sao buộc phải dùng cách ép uổng đó để bắt họ hướng về đại đạo?
Ôm nỗi hoài nghi, tôi lại vùi đầu vào kinh sách, tôi không biết tôi đã lật dở bao trang kinh, chỉ có một lời đáp, chỉ có trái tim hướng về đại đạo mới là đúng, lý do ư? Không có lý do, cũng không cần lý do. Dần dần, tôi trở nên lười đọc kinh sách, chỉ chuyên tâm đi tu luyện những pháp thuật trừ ma.
Thời gian lại qua 500 năm, địa ngục xảy ra một sự kiện,
Mọi người coi đó là một chuyện nhỏ, nhưng với tôi, đó là một sự kiện lớn đã thay đổi vĩnh viễn mệnh vận…
Châu Bút phán quan Tần Sở dưới quyền Tần Quảng Vương đã yêu một cô gái cõi trần gian (những chuyện thế này đôi khi xảy ra), song ông đã trốn lên cõi người. Sứ giả địa ngục khuyên can ông cũng vô ích, Thập điện Diêm La bèn phái âm quan quỷ binh đi tóm Tần Sở quay về. Không ai ngờ Tần Sở quá yêu say đắm không chịu dời bỏ, chỉ tìm cách lên trần gian gặp cô gái kia, và ông trốn ngục. Cuối cùng vẫn bị bắt lại, nhưng quỷ sứ đã bắt luôn theo cả linh hồn cô gái kia, đày cô vĩnh viễn giam cầm trong hang địa ngục tăm tối, để phán quan vĩnh viễn không bao giờ có thể gặp lại cô ta.
Phán quan đau đớn quá, nhục mạ thần linh huỷ diệt nhân tính, làm mọi thần đều nổi giận, quyết định huỷ diệt Tần Sở, mãi mãi không được siêu thoát.
Hôm đấy, trên Tru Hồn Đài (đài hành hình giết hồn), phán quan bị xiềng bằng xích sắt.
Móc sắt Nhiếp Hồn móc xuyên xương lồng ngực, phán quan Tần Sở ngoài dáng cao lớn ra, tan nát không còn thấy sót lại chút hình hài người.
Tôi cảm thấy trong tim tôi đau đớn như bị bóp giật, tôi nhìn trộm Địa Tạng Vương Bồ Tát trên đài cao. Gương mặt ngài vẫn từ thiện ôn hoà từ bi nhưng không chút cảm xúc, tôi tưởng tôi thấy thấp thoáng trong con ngươi thâm thuý ấy một tia lạnh lùng. Trong tôi lạnh buốt, tôi chỉ cảm thấy chính tôi đang chìm xuống, chìm xuống mãi giữa từ bi.
Trái tim bây giờ của bạn đã mất hết những xót thương sao?
Tần phán quan cuối cùng bị sấm sét đánh tan thành khói bụi…
Mọi người rời đó đã lâu, tôi lẳng lặng mò đến chân Tru Hồn Đài.
Tôi nhìn một mảnh áo đỏ của phán quan còn sót lại…
Tôi thấy một nỗi thê lương vô hạn độ.
Giây phút đó bỗng một trận gió tới, một mảnh vải lụa vuông vắn bị gió thốc tới, tôi vội vã chụp lấy, kỳ lạ sao, địa ngục mà cũng có gió ư?
Tôi nghi hoặc cầm manh vải sót lại, trên vải có chữ:
“Thu xanh năm ấy, nhạn lạc bên cầu, duyên gặp nhau
Lòng như nước chảy trôi, mây vẽ ngọn núi thắm
Cúi đầu mỉm miệng cười như hoa sớm, muốn say mê dọc kiếp này bên nhau
Từ ấy, ngồi buồn dằng dãi canh thâu nghe tiếng mưa tan vỡ”
Một khúc “Môi Hồng” diễm tuyệt!
Mơ một câu ngồi buồn dằng dãi canh thâu mưa nghe tan vỡ. Tôi đột ngột nhớ ra những chuyện cũ từ nghìn năm, tôi cô đơn bên cầu, tôi cô đơn làm quỷ, tôi ngồi buồn dằng dãi, tôi vô vọng chờ một người con gái không bao giờ quay trở lại.
Một giọt nước mắt lăn xuống, thấm dần lên tấm vải trên tay tôi, đấy là lần đầu tiên bao nhiêu tương tư đau khổ, bao nhiêu li biệt u uất đã lại dào lên qua nghìn lớp khoá trong đáy sâu tim tôi, nước mắt cũng thấm vào tim tôi như đang thấm tấm lụa trên tay tôi.
Chỉ có điều giờ tôi không biết, giọt lệ của tôi đã chảy vì tôi hay vì phán quan họ Tần? Hay chảy vì người con gái ấy? Hay chảy vì tương tư? Hay nước mắt chỉ chảy vì chính bản thân nước mắt…
Gió tiếp tục nổi lên thổi bay phơ phất những mảnh vải rách nát sót lại trên đài hành hình, địa ngục không bao giờ có gió, phải chăng đó chính là linh hồn oan khuất của Tần phán quan đã bất tử? Thổi lay động mảnh vải trên tay tôi, tôi như đã mờ mịt hiểu ra ý nghĩa của gió, tôi cầm mảnh vải đi xuống khỏi Tru Hồn Đài, tôi đi về hướng địa phủ u tối thâm sâu, khi ngoái lại, gió đã lặng, chỉ tan tác đây đó những mảnh vải áo rách nát của phán quan, như những mảnh lá đỏ rụng xuống giữa thu thăm thẳm…
Lúc này tôi nhận ra, hay là Tần phán quan vẫn còn tồn tại…
Tôi lén lút đi tới gian ngục giam linh hồn của người nữ kia, gương mặt tiều tuỵ thảm hại còn sót lại chút xuân sắc ngày xưa, tôi không nén được tiếng thở dài.
Tôi không ngờ ma quỷ cũng luỵ bởi tương tư, cũng đau đớn bởi biệt ly, cũng tiều tuỵ bởi đôi lứa chia uyên ương rẽ.
Tôi đưa mảnh vải đó cho hồn quỷ nữ kia, tôi quay người rời khỏi lao ngục, tôi không muốn phải nghe thấy tiếng khóc của người nữ kia.
Đi một đoạn, tôi không nghe thấy tiếng khóc, mà lại nghe thấy từ trong ngục tối cất lên một tiếng hát tuy ai oán nhưng kiên định:
“Thu xanh năm ấy, nhạn lạc bên cầu, duyên gặp nhau
Lòng như nước chảy trôi, mây vẽ ngọn núi thắm
Cúi đầu mỉm miệng cười như hoa sớm, muốn say mê dọc kiếp này bên nhau
Từ ấy, ngồi buồn dằng dãi canh thâu, nghe tiếng mưa tan vỡ”
Tiếng ca nghẹn ngào, nhưng chứa một nỗi ngọt ngào; tiếng ca ai oán, song mang đôi chút bình yên. Tiếng hát càng bay càng cao, nhưng lại như sát ngay bên tai tôi, tôi cắn chặt môi, thả thân hoá một làn khói xanh, tôi bay ra khỏi chốn địa ngục…
Hôm đó, tôi hiểu ra tình yêu là gì, tình yêu dạy người ta chết đi cũng hẹn được bên nhau.
Hôm đó, tôi đã căm ghét sự thâm uyên vô đáy nhưng mê man vô bờ của địa ngục.
Hôm đó, tôi dứt bỏ việc đi tìm đại đạo trong kinh phật.
Hôm đó, tôi bỏ địa ngục.
Hôm đó, tôi quay trở lại với cõi người.
Tôi phản bội địa ngục, đại đạo, tôi đi tìm đạo chân chính của tôi giữa cõi người.
Trong giây phút tháo thoát khỏi địa ngục, tôi quay đầu lại nơi địa ngục đã trói buộc hai nghìn năm của tôi, “Chờ khi nào tôi hiểu được những lẽ đời chân chính, tôi mới quay lại!”. Tôi nghĩ, đến lúc đó, hẳn tôi sẽ không còn mê man, không còn đau khổ nữa…
Chương Ba: Trong cõi phù vân
Trời mờ sáng, khóm núi phủ một dải mây u ám, tôi dật dờ giữa đám mây mù. Trong tim tôi tràn ngập cảm giác không thể nói ra, bình yên và hỗn loạn, kiên quyết mà lưỡng lự. Có lẽ đây là lần tôi ra đi vĩnh viễn, cảm giác trào lên đâu đó trong tim, để tôi thấy nỗi hoang mang và cô độc tột cùng.
Ra đi thật dễ dàng, cũng chả cần nói chia tay, cũng chả cần vẫy tay, nhưng rời khỏi nơi đã gắn gốc rễ, thành cụm bèo phiêu dạt trong gió lạnh lẽo trở thành khoảnh khắc không ai quên được. Chim di cư còn biết chốn bay về, lá rụng từ cây còn biết về cội, giây lát ấy, tôi rốt cuộc hiểu ra cảm giác của những người bạt xứ chết nơi đất khách, cuộc đời đã trôi chảy hết, vạn sự đã dĩ vãng, nắm xương còn mòn mỏi hóng về quê cũ.
(Du đãng là một tính từ, du là đi từ nơi này sang nơi khác, đãng là vẩn vơ trôi. Lúc nãy đã băn khoăn xem dùng từ gì thay vào "người du đãng", như du lãng, lãng du, phiêu bạt, phiêu lãng, tuy nhiên phát hiện ra tất cả những tính từ đó đều là từ Hán Việt. Nên tránh dịch một từ Hán Việt này ra một từ... Hán Việt khác (quan điểm của tôi như thế) nên tôi tạm để từ du đãng để bao giờ có thời gian sửa vào nghĩ sau.
Ở trong tiếng Việt, du đãng là danh từ, nên mới dịch thành vagabond như bạn biết. Cảm ơn bạn.) (P/S: Nghĩ là thử dịch thành người bạt xứ xem sao)
Tôi không biết tôi sẽ sống bao lâu, có lẽ 100 năm, có thể 1.000 năm, có thể 10.000 năm. Một vạn năm rất dài, dài tới mức tôi không biết dài bao lâu, nhưng khi kết thúc, cũng không biết vạn năm đó kết thúc ở một ngày nào, rồi liệu có người nào mang nắm xương tàn của tôi về lại chốn mà hôm nay tôi ra đi.
Nắng xuyên qua mây mù, rọi vạn dặm nhân gian rỡ ràng. Tôi đứng trong ánh nắng cảm giác được nỗi nhẹ nhõm chưa từng nếm trải, từng sợi nắng từng sợi ấm áp hắt vào buồng tim tôi, ánh sáng quyến rũ như xuyên suốt thân thể tôi đang trong veo như một đám mây.
Một hồn quỷ thì làm sao nhìn thấy được nắng trời, hạnh phúc làm sao khi tôi được Bồ Tát truyền giáo Pháp môn tu Tiên, tôi lãnh ngộ được ân sủng từ thiên nhiên. Tôi vô tình nhớ tới Bồ Tát, trong tim tôi ngài là bậc tối cao nhân từ, tôi kính trọng ngài, tôi yêu ngài.
Nhưng cùng lúc đó tôi nhớ đến nỗi tuyệt vọng của Tần phán quan, gương mặt gỗ đá tuyệt vọng trong oán hận, những mảnh hồn sót lại nhầy nhụa và tấm lụa áo bay phấp phới, và lúc đó gương mặt Bồ Tát lạnh lùng như băng, đôi con ngươi sâu thẳm... Tôi chưa biết từ bao giờ bắt đầu có một sợi tơ ai oán với Bồ Tát, cũng không rõ tôi đã thương xót Tần phán quan từ bao giờ.
Không quên nổi nụ cười nhân ái như cha của Bồ Tát.
Không quên nổi ánh mắt vô thần khi sấm sét giáng tới của Tần phán quan.
Không quên nổi khúc hát ai oán của linh hồn đơn côi nơi ngục tăm tối.
Đầu óc hỗn loạn, như có vô số người đang cãi cọ trong tôi, kéo tôi về nhiều hướng... Tôi không biết tôi nên ngả về đâu, về ai.
Tôi ngơ ngẩn ngồi bên đường, nhìn người qua lại, mỗi người đều một vẻ mặt vội vã, vội vàng tới, vội vàng đi. Tôi hâm mộ họ, họ biết họ nên đi đâu, còn tôi thì chả biết đi đâu, cũng không ai nói cho tôi biết, tôi nên đi về đâu.
Ngày của người trôi sao nhanh, chớp mắt, mặt trời đã tắt đi tà huy của mình, đêm lại tối rồi, bốn phía người đi thưa dần, đôi khi có người ngang qua, mặt có nỗi thèm mau về ngôi nhà nhỏ. Nhà, tốt biết bao. Trong nhà có thể vợ đã nấu xong cơm, chờ người chồng về sum vầy, con cái chờ bố mang quà về...
Mà những người vội vã qua đường này, có lẽ cũng đang nhớ bữa cơm thịnh soạn chờ ở nhà và người vợ dịu dàng, đám con ngoan, mở cửa về con cái sẽ sà vào lòng, vợ mỉm cười êm ái...
Nhà, tôi không có nhà, cũng không biết ở đâu có nhà của tôi.
Đột nhiên, tôi nghĩ đến ngôi nhà một nghìn năm trước tôi đã đầu thai, ở đó có cha tôi, có mẹ, có cô ấy... tôi như người chết đuối vớ được cọc, người đi đường ban đêm nhìn thấy một tia sáng đèn, tôi không kìm được nỗi cảm động: "Tôi phải về nhà!"
Vào giây cuối cùng khi đêm tới, trong ngọn khói leo lét, đèn nến thắp lên đây đó, tôi hoá thành làn gió, bay về phương xa, nơi xa là nhà tôi, cách xa đã nghìn năm.
Loáng thoáng nhớ vị trí nhà nghìn năm trước, ở bên núi. Tôi khôi phục vóc tướng, bước lên đường núi. Đường núi quanh co, bên núi có thị trấn nhỏ, gọi là "Đào Nguyên Hương", tôi từng sống ở đây. Đi trên đường núi, bốn bề xanh ngắt điệp trùng, chim hót vượn kêu, hoa dại phả vào tôi hương vị nhân gian.
Được sống trong đời sống này thật hạnh phúc, tôi nghĩ. Tôi lục lọi tìm ký ức những gì còn nhớ về cuộc sống trần gian ngày xưa, xuân hoa thu nguyệt hạ đỗ quyên, tuyết hoa trắng trời mùa đông.
Hoa đào trước cổng vườn cũ, không rõ hôm nay tôi về có nở hoa rực đầy cành như ngày xưa? Cây liễu bên hồ trước làng liệu còn bầy trẻ con đùa nghịch? Những quán rượu dọc đường bay hương thơm liệu còn nhộn nhịp như ngày cũ? Những ngôi nhà cổ còn che người qua cơn mưa gió? Những bạn bầy thanh mai trúc mã thơ trẻ xưa liệu còn đầu thai về đất cũ này?
Nghĩ rồi chân bước chậm dần, quê càng gần lòng càng âu lo, cách biệt ngàn năm thời gian, cố hương, vẫn là cố hương của tôi chứ? Thị trấn ngày càng gần, tim tôi càng thắc thỏm, cảm xúc hỗn tạp, không biết nên bắt đầu từ đâu. Trong tâm trạng hoang mang, tôi một lần nữa đặt chân lên quê cũ.
Ấn tượng về khu vườn xưa đã mất, tất cả xa lạ, những con phố xa lạ, những cái cây xa lạ, những người mãi mãi là người lạ. Tất cả vừa như vẫn có gì quen thuộc, màu viên đá lát đường như xưa, dáng cây vẫn yểu điệu như xưa, gương mặt người dường như ta từng gặp, chỉ có điều không biết nói từ đâu.
Quanh quẩn mãi, tôi mới tìm được nền nhà nghìn năm trước, nơi tôi đã từng sống với cha mẹ và người thân. Nhà đã không còn, nền đất đã biến thành rừng hoa đào, giữa rừng chỉ còn sót lại một hòn thạch sư lở lói cho tôi biết đây vốn là nhà tôi, đây, là nhà tôi, ngôi nhà một nghìn năm trước, ngôi nhà đã không còn tồn tại.
Chậm rãi đi giữa rừng đào, cẩn trọng soi xét kỹ dưới chân mình đất nào là nền nhà cũ, đâu là phòng, tôi không ngờ tôi có trí nhớ tốt thế, nhớ được bao nhiêu chuyện xưa cũ. Nhè nhẹ ngẩng đầu nhìn về xa xăm rừng đào, đôi mắt ầng ậng mây mù, mơ hồ như rừng không còn nữa, tôi đang đứng giữa nhà tôi, lầu gác vòm mái, hiển hiện trong mắt.
Trong nhà giữa như vọng đến tiếng mẹ gọi tôi về ăn cơm, thư phòng dường như có tiếng cha mắng tôi trốn học. Tiểu viện tường đông, đầu tường như mọc chút rêu xanh, đó là âm thanh gì? Cô ấy ở bên tường gọi tôi, đòi tôi gấp cho cô ấy một cành hoa đào, bắt một con chim sẻ nhỏ...
Một cánh hoa rụng xuống, ngả lên những vân sóng tầng tầng giữa dòng, từng vòng sóng từng vầng loang ra, trong làn ánh sáng xao động, phòng ốc, đình viện chìm đi không dấu vết, cha mẹ, gia nhân, những lứa bạn bè quen thân hoá thành hư ảo theo sóng nước. Chỉ có hoa đào như cũ, những cánh hoa bay trong gió như mơ như ảo, như khói như mưa, như khóc như than, trái tim tôi như những làn khói bay xa, phiêu dạt theo cánh hoa, phiêu bạt...
Đêm tối, tôi mang bầu rượu, ngồi bên hòn đá thạch sư, nói chuyện cả đêm với đá. Tôi kể với đá quá khứ của tôi, nói với nó chuyện kiếp trước của tôi, nói với đá về cha mẹ tôi xưa, nói với đá về sự vô tri của tôi, nói với đá sự đau đớn của tôi, nói với đá sự buồn bã của tôi, nói với đá những khao khát của tôi, nói với đá sự hoảng loạn của tôi...
Cuối cùng tôi đắp ba doi đất vàng bên hòn thạch sư, làm thành mộ của cha mẹ tôi và người tôi yêu, dùng chỗ rượu còn sót lại, tế cúng linh hồn đã xa xưa của họ. Rượu thấm vào đất, thoáng đã khô ngay, tôi hy vọng nhờ rượu này có thể rửa đi những đau thương và bất hạnh mà tôi đã mang đến cho họ nghìn năm trước, có thể rửa đi những tiếng than vì sự bất hiếu của tôi, những oán hận vì tôi ngỗ ngược.
Nhưng tôi không biết rượu có khả năng đó thật không, đi giải những vết thương suốt ngàn năm, đi bù đắp những tiếc nuối đã ngàn năm.
Tôi quyết định ở lại sống nơi quê nhà, sau khi từ bỏ địa phủ, tôi hồn phách rã rời, không còn muốn bước chân ra đi nữa, tôi muốn có một cái nhà, đây đã là nhà tôi ở kiếp trước, cũng sẽ là nhà tôi ở kiếp này.
Tôi vốn định ở lâu trong rừng hoa đào, nhưng rừng đào ven thị trấn. Vốn cô độc trong địa phủ, tôi không thể sống chung với hàng xóm, hàng xóm luôn thấy tôi cổ quái, tránh né tôi, tôi rất buồn, tôi muốn sống như họ, nhưng tôi không biết bắt đầu từ đâu. Vì thế tôi đành dọn ra rìa núi ngoài thị trấn, tự lợp cho mình một gian cỏ.
Mặt trời mọc rồi lặn, năm nối năm, ngày trôi qua rất nhanh, tôi cũng tập tành dần thói quen người trần gian, tôi tự cày lấy vài mẫu đất cằn cỗi, trồng vài loại rau, nuôi vài con gà con vịt. Cuộc sống tuy thanh đạm, nhưng so với cuộc sống u ám nơi âm ty, tôi cảm thấy rất mãn nguyện. Đôi khi tôi cũng xuống núi vào thị trấn, bán vài thức rau mình trồng, vài con gà vịt mình nuôi, rồi vào quán quen nhắm vài cốc rượu nhỏ.
Dần dà, tôi quên mình là quỷ, quên mình đang đi tìm đại đạo, tôi dường như cảm thấy mình là người, là một kẻ phàm phu nhàn rỗi.
Một ngày, núi yên tĩnh xuất hiện một người khách không mời mà tới.
Hôm đó, tôi vừa cho gà vịt ăn xong, chuẩn bị nghỉ ngơi, uống ấm trà. Một đạo sĩ bước tới trước mặt tôi, định hoá duyên (xin đồ khất thực).
Tôi bèn đưa chút cơm rau và trà nước cho ông. Khi đưa tay ra nhận, mặt đạo sĩ biến sắc, trở nên rất khủng khiếp, mắt chòng chọc nhìn thẳng vào mặt tôi. Rồi không nói không rằng, quay người chạy mất. Tôi cảm thấy thật kỳ quặc, nhưng không ngờ một tai hoạ từ trên trời giáng xuống...
Sáng hôm sau, tôi còn chưa cơm nước gì, thì thấy đạo sĩ kia dẫn một đoàn người lên núi, có cả đạo sĩ, hoà thượng, rất nhiều dân làng. Nhóm người vừa nhìn thấy tôi đã cuống lên, rồi toả ra bao vây tôi, hoà thượng niệm kinh liên tục, niệm những gì mà tôi nghe không hiểu. Những đạo sĩ thì ném bùa chú tới tấp, cầm chuông rung lắc loạn xạ, thoáng chốc sân nhà tôi náo loạn gà vịt bay chó chạy, ruộng rau bị dẫm nát tan hoang. Tôi chịu không nổi phản đối, các người đang làm cái gì đấy! Ai ngờ đạo sĩ kia hắt một thứ đen sì vào người tôi, một mùi tanh nồng nặc lên mũi, thì ra là một chậu máu!
Tôi nổi cơn thịnh nộ, tiến tới, vung tay lên một quyền, đạo sĩ bị đánh bay văng ra vài trượng, thổ ra máu tươi, nằm úp trên đất phều phào. Tôi sững lại, giờ mới nhớ ra công phu tôi tu luyện suốt ngàn năm đâu phải sức người thường chịu nổi, may quá tôi chỉ ra một đòn nhẹ, nếu không đạo sĩ kia chết ngắc.
Đám người hỗn loạn kêu oai oái, một đạo sĩ mắng chửi: "Đồ súc sinh quỷ đói, lại còn không sợ máu chó đen!" Tôi mắng lại: "Ngươi mới nói nhảm, ta không phải ác quỷ, ta là... ta là..."
Tôi sững sờ.
Tôi là quỷ, tôi chính là quỷ đây.
Đạo sĩ quát: "Ngạ quỷ nhà ngươi, vì sao không ở địa ngục, chạy lên trần gian hại người! Quyết không tha cho ngươi!"
Tôi giận dữ, tôi nào hại người. Tôi hét lên: "Tôi chưa hề hại người!"
Đạo sĩ hét lớn: "Ác quỷ không hại người, lên trốn trần gian làm gì! Xảo trá!"
Tôi giận đùng đùng, tôi chỉ muốn về sống ở quê hương tôi, chỉ muốn có một mái nhà. Chẳng lẽ như thế là sai lầm ư? Ai ngăn cấm quỷ về dương gian! Ai! Tôi không hại ai, tôi chưa bao giờ hại ai. Tôi chỉ sống trên mảnh đất của tôi thôi!!! Tim tôi ngày càng kích động, lời mắng mỏ của đạo sĩ làm tôi không kiềm chế nổi nữa, tiếng niệm kinh, tiếng chuông, những tiền giấy bay tới tấp đầy trời, những gậy gộc gạch đá đập lên người làm tôi bức bối.
Một luồng sức mạnh tiềm ẩn trong thân tôi bạo phát, tôi ngửa đầu lên trời gào thét, một luồng âm khí từ ngực tôi vụt thoát, tức khắc biến thành một quầng vần vụ xanh lè và hoá thành cơn lốc dữ dội, thổi bay đất đá, mái nhà bị san phẳng, ruộng vườn tơ tướp, cây cối bật nhào rễ... Mấy hoà thượng đạo sĩ bị thổi bay, những người còn lại sợ hãi kinh khủng, cuống cuồng bỏ chạy xuống núi.
Hôm sau, tôi vào thị trấn định mua vài thứ cất lại nóc nhà.
Ai ngờ vừa vào trấn, những người gặp tôi mặt thảy đều xanh lè, hoảng hốt bỏ chạy. Người người tán loạn sợ hãi, cả những lính gác cổng thành đều không rõ nấp vào đâu trốn. Tôi cũng không hiểu xảy ra điều gì, cho đến khi tôi tới quán mì quen thuộc của ông Vương định ăn chút lót dạ, tôi mới hiểu ra.
Ông Vương nhìn thấy tôi đi vào, sợ run lên cầm cập, vội vàng bảo: "Đừng đến nữa, đừng có đến nữa..."
Tôi nghi hoặc nhìn, ông ta nói vấp váp: "Anh là quỷ thật ư?".
Óc tôi oà ra một tiếng, tôi hiểu rồi, tôi hiểu hết, người, không bao giờ đón nhận quỷ, cũng sẽ không bao giờ cho phép quỷ chia sẻ cõi sống cùng họ. Tôi không biết trong lòng tôi là cảm xúc gì nữa, là bi thương, là bi phẫn, là buồn bã, tôi ngơ ngẩn quay người đi ra khỏi quán nhỏ, nhìn phố không người, hàng quán xô lệch.
Tôi muốn gào, tôi muốn gọi, tôi muốn khóc... Tôi, nơi quán rượu trống hoác, cầm hồ rượu, vứt xuống một đồng xu, tôi đi khỏi thị trấn không ngoái đầu.
Giữa rừng đào, tôi uống một hơi cạn nửa hồ rượu, còn lại nửa bình rưới lên đất.
Tôi vốn định năm nay mùa hoa đào nở, tôi sẽ xây những nấm mồ thật cho họ, nhưng xây rồi nào để làm chi, mà tôi cũng chẳng còn thể nào ở lại nơi này.
Tôi vốn tưởng đây là quê nhà, nhưng không phải, nghìn năm trước là, nghìn năm sau không! Bãi bể ruộng dâu, thiên địa vô tình, ai ngờ nhân gian lạnh lùng thế, những người bạn ta từng quen thân, lại nghĩ ta không phải đồng loại mà vứt bỏ ta, những người qua đường từng đi bên cạnh, giờ trốn tránh ta, như ta là hồng thuỷ, ta là thuốc độc...
Lần này tôi không có nước mắt, nhưng trong tim tôi đau như là nhỏ nước mắt, đau tới mức tôi không thể thở...
"Lang tang..." chiếc hồ rượu vỡ tan dưới chân, như mảnh vườn tan nát của đời tôi, giấc mơ tan nát của tôi.
Chương 4: Tình Về Chốn NaoNgọn cả lả bóng tà dương, lả ngoài bóng tà dương, nước lạnh mây vàng, nếu có ruột cũng đau đớn đứt ruột, nữa là tôi không có ruột.
Những ngày trên cõi thế, tôi như con trùng bám trên lá khô trôi dật dờ, vật vờ mãi không hết ngày, những cơn sóng triều của nhân gian lôi tôi đi, tôi muốn phản kháng, nhưng hết sức, cũng không kháng cự nổi. Tôi không biết bờ bên kia của tôi là phía nào, tôi chỉ biết nhìn xa vời triều lên triều xuống, kệ dòng trôi dạt.
Tôi là quỷ, là thứ con người ghê sợ nhất, cho dù tôi dùng nỗi niềm nào đi khao khát những dịu dàng êm ái, nhưng cũng không bao giờ có được một trái tim ấm áp, bởi vì tôi là quỷ.
Dần dà tôi quy thuận số mệnh của mình, ban ngày, tôi nấp trong góc tối, nhìn ra những tấp nập nhiều màu của người sống, ban đêm, tôi lẩn vào dòng người, thử đi nếm những niềm vui cõi hồng trần. Tôi tưởng tôi đã rèn một chiếc mai, cõng nó lên, sống cẩu thả tạm bợ qua ngày, giữa xã hội của con người.
Bình minh, những tia nắng sớm uể oải chiếu vào từ cửa sổ, trời đã sáng rồi...
Tim tôi bỗng trở nên lo âu luống cuống, tôi không thích bình minh và nắng trời. Sự mát mẻ của bình minh và tia nắng ấm làm da tôi có cảm giác hỗn loạn, một hơi ấm từ ngoài thấm vào làn da còn lạnh lẽo, làm tôi cảm giác ngứa ngáy và tê tái bứt rứt khó tả. Trên da như có nghìn con côn trùng đang bò, muốn bắt chúng không được. Tâm trạng càng lúc càng cồn cào...
Lại qua một đêm ngập trong rượu. Với người đời, một ngày vừa mới bắt đầu, với tôi, một cuộc vui sống vừa kết thúc. Tôi không ngăn được tôi căm ghét cả thế giới này, mọi sức mạnh thần linh trên đời.
Tôi thích đêm đen, vì tôi là ngạ quỷ, giữa tiếng câm lặng yên tịch, trái tim tôi từ tốn lại, màn đen kịt của đêm che phủ lên tất cả những gì tôi không muốn để người đời thấy. Tôi thả lỏng người trong bóng đêm, tôi lúc này mới thực sự là tôi. Tôi không cần để ý xung quanh, không cần canh cánh bên lòng mọi sự, cho dù bên tôi ẩn chứa những ác mộng của đêm đen tôi cũng không bận lòng. Bởi tôi với ác mộng là một, đều thuộc về bóng tối...
Trong màu đêm vô tận, tình cảm của tôi chảy lan, theo nước triều lên xuống, tất cả đã là vật ngoài ta, đã không còn liên quan gì đến tôi... Quan trọng nhất là trong màn trời tối đen, tôi được phục sinh.
Tôi rất cô độc. Tôi khao khát được đến gần, khao khát được quan tâm. Hy vọng có một người bên tôi, lúc nào cũng bên tôi. Đó, sẽ là những giây phút hạnh phúc nhất. Hiện thực thì vô cùng u ám, tôi không còn cơ hội nào cất tiếng nói với con người, kể chuyện tâm sự. Đôi khi, tôi phát hiện một cơ hội nhỏ nhoi, nhưng cũng chỉ là một chấm sáng vụt tắt. Lâu dần, tôi bắt đầu buồn phiền, bắt đầu oán trách. Cuối cùng, tôi cũng chẳng được thần linh nào đoái hoài, có thể ngay cả thần phật cũng đã vứt bỏ tôi rồi, bắt tôi phải sống trong đêm tăm tối.
Những lúc lên đèn, người như một đàn ong huyên náo trong tổ ong, tôi thèm được hưởng sự huyên náo thoải mái ấy, nhưng tôi dường như không sống trong cõi người, tuy tôi nhìn được họ, nhưng tôi mãi mãi không thể tới gần.
Xuân đi xuân lại, thu về thu qua. Những mầm non từng vươn nở trong gió xuân, những chiếc lá đã mọc lên giữa đêm hè, những khúc biệt ly lưu luyến bay múa giữa gió thu, những bùn hoá dưới tan tác tuyết đông, rồi như phép lạ xuất hiện ở đầu cành, lại một màn xanh tươm óng toàn thân cây. Cỏ cây như đều hớn hở sinh sôi, có sinh có tử, có đến có đi, kẻ tới hôm nay tiếp kẻ vừa lìa ngày qua.
Nhìn những sinh linh mạnh mẽ ấy, tim tôi như dây đàn bị ai lướt một khúc nhạc, nặng lòng và cuống quýt. Cây cỏ cũng có thể vậy, tôi tuy là một hồn quỷ, nhưng tôi đã sống qua hai nghìn năm rồi, tôi cũng đã từng tu luyện đại đạo rồi. Giữa bao la chúng sinh, tôi cũng điềm nhiên có một số mệnh như ai. Tôi đã bỏ địa ngục rồi, không thể quay về đấy nữa, và tôi cũng không muốn quay về, tôi đã tới cõi mười dặm hồng trần này rồi, thì tôi sẽ sống như một "người" trong nhân gian, tôi không muốn làm một "quỷ" chỉ có quyền sống dưới địa ngục.
Tôi phiêu dạt tứ xứ, lưu biệt lãng đãng, tôi lại tìm một nơi mới cho tôi trồng lên số mệnh mình.
Tôi muốn tìm một người bầu bạn, bên mình suốt đời. Quên đã bao mùa nhạn bay về phương Bắc, quên đã bao mùa én con rời tổ. Bạc những vết bụi hoàng thổ con đường cũ dưới chân tôi, bạc những ngọn khói liễu heo hắt bên mình. Giữa đất trời chỉ có mỗi một tôi đi...
Nhớ chớm thu năm ấy...
Ngoài quan tái cảnh vật không còn giống như Giang Nam, Trung Nguyên, trời cao mây nhạt, mênh mang chân trời, có khúc ca vọng tới:
"Trời xanh xanh, cỏ mênh mang, gió thổi cỏ ngả xuống, hiện lưng cừu đàn."
Tôi đi lang thang trong thảo nguyên, nhìn núi Hạc Lan uy nghi xa xa, những mạch núi gân guốc dưới nắng mặt trời. Trên thảo nguyên không có đường đi, chỉ có những người du mục đôi khi ngang qua đuổi một đám bò cừu.
Lòng tôi nhẹ nhõm, có lẽ bởi phong cảnh rộng rãi ngoài biên ải đã giúp tôi thở rộng lồng ngực, hít vào ngọn gió xua mây mù trong tim tôi. Tôi rất muốn chào hỏi người chăn cừu, trò chuyện với họ, nhưng tôi lại sợ người ta phát hiện ra tôi là ai, tôi do dự mãi. Tôi chỉ nhìn theo họ lùa những đàn súc vật đi xa dần...
Có một ngày, tôi ngồi trên một gò cỏ nhỏ, yên lặng ngắm đám mây màu uyển chuyển cuối trời. Màu mây biến đổi diệu kỳ, lúc là ngọn núi, lúc thành cái mũ, lúc là con ngựa, một chú dê... Dê? Tôi đột nhiên phát hiện, không biết từ lúc nào một đàn dê đã chạy tới bên tôi, dê rất đáng yêu, chỉ cúi đầu yên lặng gặm cỏ... Tôi ôm một chú dê vào lòng, vuốt ve lông dê, lúc đó, một chú chó chăn dê chạy đến chỗ tôi, dừng lại trước mặt tôi, nhìn tôi, tôi nhìn nó.
Một lúc sau, con chó chăn dê lười biếng nằm xuống chân tôi, tôi đưa tay xoa đầu nó, mũi nó ngửi hít áo quần tôi, thè lưỡi liếm tay tôi. Một bóng người chạy tới, là một con người, tôi bắt đầu tự dưng lo lắng, không biết nên bỏ đi hay nên...
Người đó đã chạy đến trước mặt tôi, con chó dưới chân tôi đứng dậy, nhiệt tình chạy tới bên chân chủ, vẫy đuôi rối rít.
Người đó chăm chú nhìn tôi, tôi cũng nhìn người đó, là một cô bé, chừng mười lăm mười sáu tuổi. Tôi luống cuống đứng dậy, tôi sợ họ nghĩ mình là kẻ trộm, sợ họ ghét mình, sợ nói chuyện với họ. Tôi ngốc nghếch cười với cô bé, nhưng vì quá lo âu, tôi cứ ôm khư khư con dê trong lòng không thả ra.
Cô gái quỳ xuống, đỡ lấy con dê trong tay tôi, ôm nó vào lòng. Rồi bảo tôi, anh có đói không?
Tôi không ngờ cô gái nói với tôi câu đó, tôi há miệng trợn mắt không trả lời được. Cô gái ấy đi xuống sườn đồi, nhìn tôi đờ đẫn không phản ứng, quay lại nói thêm: "Đi với em đi!"
Rồi cô ấy cười rạng rỡ...
Tôi chưa bao giờ nhìn thấy một nụ cười đẹp như thế...
Không, tôi đã từng nhìn thấy, tôi đã từng gặp...
Tôi quay lại một nghìn năm trước, bên chân cầu Nại Hà, một nụ cười không có gì xinh đẹp hơn...
Trái tim tôi buốt nhói một ý nghĩ "lẽ nào là cô ấy?"
Tôi không biết nên làm gì, nên nói gì, chỉ thấy chân mình đã bước, theo cô ấy.
Dưới sườn núi là một lều Mông Cổ, tôi đứng ngoài lều, lưỡng lự. Cô ấy mở rèm cửa, lại cười với tôi, rồi vẫy tay cho tôi.
Trong lều Mông Cổ, trên bếp lửa đang đun nồi thịt dê, một người đàn ông cao to kêu tôi ngồi xuống. Cô cười vui đưa cho tôi bát sữa ngựa. Tôi chẳng biết nói gì, vụng về lúng túng, thôi thì họ đưa gì tôi ăn nấy, nghe họ nói chuyện tôi biết tên cô gái là Hốt Lan, người đàn ông cao lớn là cha cô.
Tôi chăm chú ăn thịt dê, uống sữa ngựa, bố cô nhìn tôi ăn bèn cười ha hả, còn cô nhìn tôi tủm tỉm, tôi cũng cười theo ngô nghê.
Ăn hết, tôi quẹt mồm, lúc này Hốt Lan mới mủm mỉm và nghiêm túc nói: “Anh ăn thức ăn nhà tôi, anh trở thành nô lệ cho nhà tôi, đây là luật lệ của thảo nguyên!”.
Tôi lại đờ đẫn cả người, mồm há hốc, nhưng thấy cô ấy nói rất nghiêm túc, tôi chỉ còn biết vâng. Lúc này cô cười lên một tràng giòn giã lanh lảnh như chuông bạc, bố cô cũng cười phá lên sảng khoái, chỉ có tôi ngồi đó, mồm vẫn tiếp tục há hốc.
Bố cô hỏi tôi: “Anh là người ở đâu?” Tôi ngơ ngẩn lắc đầu, ông ta lại hỏi: “Anh mấy tuổi?” Tôi không dám nói tôi 2000 tuổi, vì thế, tôi thờ thẫn lắc đầu. Bố cô nhìn tôi dò xét: “Thằng này bị dở hơi chăng!”.
Cô cứ cười tủm tỉm mãi, rồi bảo bố: “Người này thú vị ghê, bố giữ nó lại nhé!”
Bố cô đánh giá tôi, không nói gì. Tôi nhìn cô, tôi nhìn qua đôi con ngươi nâu xanh trong vắt, tôi dường như thấy cả quá khứ xa thăm thẳm, những biệt ly cũ, những nhớ nhung xưa, những sầu đau xưa, tất cả tất cả xưa xa… Tôi không kìm được nước mắt chảy ròng ròng xuống má, tôi dập đầu lên nền đất, van xin: “Xin hãy giữ tôi ở lại đây, cho dù bắt tôi làm nô lệ cho ông, xin ông hãy cho tôi ở lại!”
Tôi thành tâm khẩn cầu, như năm đó tôi khóc ròng đau đớn van xin Bồ Tát.
Hai cha con người Mông Cổ kinh ngạc vì phản ứng của tôi, nhưng thấy tôi thành tâm và đầy nước mắt trên mặt, cả những lời nói khẩn cầu không thể giả tạo, họ tỏ vẻ thương hại. Cuối cùng cha cô giữ tôi lại.
Trong tim tôi có niềm vui không lời, tôi lén nhìn cô gái, muốn biết cô nghĩ gì, mắt cô vẫn trong sáng, nhưng dường như trong sâu thẳm tâm hồn có chút nghi ngại.
Tôi không dám nhìn cô lần nữa, những ngọn triều trong hồn tôi đã phản chiếu lại một đôi mắt trong ký ức nhìn tôi căm hận ai oán, tôi sợ hãi đôi mắt ấy, tôi sợ hãi ánh nhìn ấy. Tôi sợ hãi số mệnh…
Tôi tự nhủ: Cho dù cô coi tôi là gì, đời này kiếp này tôi nguyện làm nô lệ cho cô một đời một kiếp, cho dù tôi là nô bộc, nhưng chỉ cần được ở bên nhau, được nhìn thấy nhau, cũng đủ…
Từ đó, tôi ở lại, ngày ngày tôi ở bên cô, cưỡi ngựa, chăn dê…
Ngày nối ngày qua, tôi ngày ngày cầu xin, cầu cho cô mãi mãi vui tươi, cầu cho cô mãi mãi không bao giờ ghét bỏ tôi, mãi mãi để cho tôi theo cô, mãi mãi làm nô bộc của cô… Tuy cô ấy chưa bao giờ coi tôi là nô lệ, nhưng tôi là một ngạ quỷ, một ngạ quỷ chỉ có thể làm nô bộc…
Tôi đã từng nghe người nói, những cây cỏ đá núi cũng có linh hồn, nếu nó cứ một lòng một dạ cầu nguyện làm người, rồi sau sẽ được biến thành người thật. Tôi tuy đã có hình người,nhưng tôi vẫn ngày đêm mơ được làm người, không rõ bao nhiêu đêm mộng say, tôi mơ thấy tôi biến thành người thật sự.
Cứ thế qua vài năm, cô đã lớn, mỗi ngày nhìn thấy cô, tôi như mê mẩn tâm thần, nhưng tôi cố gắng kìm nén tình yêu dành cho cô ấy, khao khát với cô ấy. Tôi vĩnh viễn ghi nhớ những ảo mộng đau đớn khắc cốt ghi tâm của kiếp trước, đôi mắt oan khuất của một người con gái tình nguyện chết đi.
“Chỉ sợ tình thắm thiết, tan vỡ mộng mỹ nhân” tôi hiểu rõ lẽ đời này. Tôi tình nguyện làm một cái cây cho cô ngồi bóng mắt, tôi tình nguyện làm lưng ngựa cho cô tuỳ ý vung roi cưỡi, tôi tình nguyện làm đốc dao cho cô phòng thân, tôi tình nguyện làm vò đựng trà sữa cho cô uống.
Tôi không muốn hé nỗi lòng với cô ấy, không muốn hoang tưởng được ôm cô vào giấc ngủ, bên nhau cười xem hoa nở, hoa rụng… Tôi đã không còn tin đời mình có hạnh phúc, không muốn biết tôi và cô liệu có duyên, nếu những giấc mơ tươi đẹp đó có thể vì tôi mà tan vỡ, tôi nguyện mãi mãi im lặng…
Rồi sau, cha cô mất. Trước lúc chết, ông hứa gả cô cho một chàng trai trẻ của bộ tộc khác.
Ngày đón dâu, cô ấy trang điểm rất đẹp, làn da mịn trắng hơn cả sữa ngựa, tóc nhóng nhánh hơn ngọc trai, những phấn hồng trên gò má hồng hơn những mây chiều, ánh sáng trong đôi mắt cô ấy đẹp hơn mọi ngôi sao lạnh lẽo bên trời.
Tôi đăm đăm nhìn cô ấy, giá như cô ấy là cô dâu của tôi, nếu như là của tôi… Tôi chỉ thấy mình rơi dần vào địa ngục, chìm sâu dưới bóng đêm vô tận, những bùn lầy tăm tối nuốt chửng tôi, tất cả đã như một kết thúc. Tôi đăm đăm nhìn cô ấy, tôi thấy cô rực rỡ thế, sáng rạng như thế, tôi thấy đôi mắt long lanh màu hổ phách, trong mắt cô những câu hỏi khôn cùng, tôi không cách nào hiểu nổi những gì trong mắt, bởi những lời trong đôi mắt nói nhiều quá, quá nhiều.
Đám rước dâu đi xa dần, tôi đứng lại một mình giữa thảo nguyên bao la, tôi đứng rất lâu, tôi không biết giờ tôi nên làm gì, tôi không biết, trái tim tôi đã bị móc mất, tôi đã mất tất cả.
Đêm tối xuống thảo nguyên, tôi ngửa mặt nhìn trời cao, trên tấm màn lông ngỗng bao la phủ vòm trời kia, gương mặt cô ấy hiện ra xinh đẹp và rạng rỡ mỉm cười, rồi lại biến mất.
Trong một giây khắc đó ánh sáng bỗng chói loà vạn trượng, mắt tôi nhìn thấy những ánh sao như mưa rơi tới tấp, cả thế giới đã ngừng lại, tôi không biết nụ cười đã mất đi ấy là những hồi ức từ tiền kiếp hay chính là tương lai của cõi này.
Đứng một mình giữa đêm khuya, chợt phát hiện thấy chính mình đã lệ rơi xuống ướt đẫm mặt mày…
Tôi thấy kiếp người đau khổ quá, tôi không dám thổ lộ cùng con người, không dám đi dọ tìm, sợ tất cả sẽ kết thúc. Ai biết được thế gian này cái gì có khởi đầu thì đều có kết thúc, mà đến lúc kết thúc tôi mới hiểu, đáng lẽ tôi phải nắm lấy cơ hội sớm hơn, nhưng, làm sao tôi biết được điều đó?
Đêm trên thảo nguyên rất yên tĩnh, tĩnh tới mức cho tôi nghe thấy tiếng tim đập, cũng không thể ngủ, tôi ôm lấy cái chăn cô ấy vẫn đắp, thở mùi thơm cô ấy còn để lại mơ hồ, trong tim tôi không hề đau đớn, không hề hối hận, tôi chỉ nhớ lại những ánh mắt của cô ấy, những cái nhìn trong veo như nước…
Khi sắp li biệt, thường có muôn ngàn lời muốn nói. Nhưng ra đi thì vẫn phải ra đi. Ngày em đi, gió sẽ thổi hết những hơi thở em để lại, nhật nguyệt sẽ mang nốt những chuyện cũ của em, làn mây trắng sẽ xoá đi những vết thương ngày xưa của em, và đám sao sẽ che giấu cái khoảnh khắc em vẫy tay sau cùng.
Tôi vĩnh viễn ghi nhớ khoảnh khắc ấy, như khoảnh khắc lần đầu tiên tôi nhìn thấy em…
Đột ngột, một đôi tay vạch tấm cửa ra, ánh trăng dát bạc toả khắp lều, trong lều là tôi, kinh ngạc vạn lần, ngoài lều là cô ấy, gương mặt đã hút hồn tôi bao cơn mê! Tôi không dám tin vào mắt mình, cho mãi tới khi cô ấy chạy vào trong lều, chầm chậm ngồi xuống cạnh tôi. Tôi nhận ra mình vẫn còn ôm chặt tấm chăn của cô ấy, thoáng chốc tôi đỏ mặt xấu hổ ghê gớm, không biết phải giải thích thế nào, tôi vừa ngước lên, nhìn cô ấy, cô ấy cũng nhìn tôi, như trên sườn núi nào gặp tôi. Tôi không nói lên lời.
Cô ấy sát tới, nhè nhẹ đỡ cái chăn trong tay tôi, rồi nhè nhẹ nói: “Ôm em đi…”
Tôi không chống cự, không thể chống cự, không muốn chống cự, run rẩy đưa tay ôm lấy eo cô ấy. Cô ấy rúc vào lòng tôi, khóc nghẹn lời... Tôi ôm chặt cô, cô cũng ôm chặt tôi, bấu chặt cánh tay tôi, chúng tôi cùng khóc. Chúng tôi ôm nhau rất lâu, cho đến lúc nước mắt khô đi...
Đêm đó, cô ấy thành vợ tôi. Tôi rất vui, rất hạnh phúc, dường như một nghìn năm luân hồi đã chuộc lại cho tôi tất cả, số phận u ám trầm uất đã rời tôi, tôi thấy giây phút này, đến địa phủ cũng nên gội trong ánh mặt trời. Tôi cảm tạ thần phật anh minh, cảm tạ lòng nhân từ của trời đất, thoát khỏi bể khổ, tôi thành tâm cầu nguyện đất trời.
Chúng tôi đến một đồng cỏ thật xa để dựng lều, ngày trôi qua thật hạnh phúc, thứ hạnh phúc yên bình như nước. Chúng tôi vẫn như thuở trước, cùng nhau cưỡi ngựa, cùng nhau chăn dê. Đêm xuống, cô ấy dựa vào lòng tôi, thủ thỉ những tâm sự của mình. Tôi thường lơ mơ ngủ quên, rồi cô ấy nổi giận lay tôi dậy, rồi cô ấy lại thủ thỉ tiếp những câu chuyện mãi mãi không kết thúc, mãi mãi...
Những ngày vui sướng qua mau, trời đất như cố ý nhạo tôi, cho tôi nếm một chút hạnh phúc, rồi bắt tôi cõng nỗi đau vĩnh hằng...
Cô ấy ốm, ngày càng tiều tuỵ, thuốc gì cũng không khỏi, thân thể cô ngày càng yếu ớt, còn như chiếc lá thu trước cơn gió, tôi nghĩ mọi cách, thậm chí đi đánh tuỳ tùng của Tây Vương Mẫu Côn Lôn bị thương, ăn cắp tinh của Tuyết Liên. Nhưng cô ấy không khoẻ lại. Tôi nhìn hai gò má cô ấy ngày càng gầy xanh xao, nhìn đôi mắt đen quyến luyến, tôi không kìm được lệ.
Cô ấy cười thê thiết: "Ở bên anh, thực sự rất hạnh phúc, em không hối hận..."
Trong sát na đó, tôi chợt hiểu ra! Tôi là quỷ, quỷ hút mất tinh khí của người! Là tôi đã hại cô ấy, tôi là một con quỷ hại người! Tôi khóc không thành tiếng, cô ấy ôm chặt lấy tay tôi, nước mắt nhoà cái nhìn của hai chúng tôi...
Khi đôi tay cô ấy chậm rãi trượt xuống khỏi tay tôi, tôi không còn nhớ gì nữa, tôi chỉ nghe thấy cô ấy nói câu cuối cùng: "Đừng bỏ em...". Nỗi đau ngập tràn thân thể tôi, căng tức rồi bùng nổ ra, biến thành đầy trời cát bay lấp hết thảo nguyên... Trong bão cát, tôi gạt đi dòng lệ cuối cùng, cô đơn đi về phía thế gian mênh mang.
Luân hồi, Nhân quả, Tình duyên, Yêu đương, Thương đau, Mê hoảng trong giờ phút này đều hoá thành sao băng rơi, vạch qua chân trời, rơi vào trong cõi xa sâu vô đáy. Thế giới là một màn đen kịt, là trái tim tôi, trong tim loé lên một ánh sao băng huy hoàng ngắn ngủi, thế giới đã sáng lên trong khoảnh khắc đó, thứ ánh sáng không bao giờ tắt nổi...
Cô ấy vì tôi đã lại chết đi một lần nữa, nhưng tôi không hối hận, bởi chúng tôi đã từng được hạnh phúc, quen nhau kề nhau, không rời không lìa, những ngày ôm ấp bên nhau không sợ li tan. Tôi sẽ lại chờ cô ấy, chờ cô ấy lại quay lại trần thế này, tôi tin lần sau tới, tôi sẽ tìm được cô ấy, tìm được cách ở bên cô. Tôi tin, rồi sẽ có một ngày, cô ấy sẽ quay lại.
Vạn thế luân hồi, nghìn ảnh hợp tan, mây về lại bên trời, trăng mém góc rừng, không rõ gió vô định về đâu, là về, hay là đang ra đi?
Trái tim vừa nhói, lệ đã một hàng...
P/S: Tôi gõ xong những dòng cuối cùng của truyện, rời quán cafe internet, hít một hơi thật dài trong lồng ngực nhẹ nhõm. Phố đã muộn, đang đi bộ ra bến xe bus thì nghe thấy tiếng khóc thút thít. Là một cô gái bên đường. Cô bảo đã đánh mất túi xách, giờ không có tiền đi xe về nhà. Tôi cho cô mượn máy di động để gọi về nhà, rồi cùng đứng đợi xe bus. Cô ấy gạt nước mắt, cười với tôi, nói: "Cảm ơn anh!"
Trong sát na đó, ngực tôi như bị cái gì đấm mạnh một cái, tim hỗn loạn...
Tôi chưa bao giờ thấy một cô gái cười đẹp như thế, tôi chỉ cảm thấy sao chân tôi mềm nhũn ra...
~ Hết ~